Thứ Bảy, 28 tháng 1, 2017

Có một Hà Nội trên đỉnh núi mù sương |

(Xây đắp) - Cả nghìn năm tinh khí nước Việt tụ về khiến cho nên một linh khí Thủ đô. Và, ở những thời gian lịch sử chặt chẽ thì Thủ đô lại tán xạ sức mạnh ấy tham gia những người con Thủ đô quay về mọi miền, có thể là nơi trước ông phụ thân họ đã ra đi.

Người Thủ đô xa Hà Nội với muôn ngàn nguyên nhân, dù họ có nằm xuống rừng hoang hay đi về với hoa trên ngực hoặc lỡ chân viễn xứ hoặc nín yên ổn thì âu cũng là phương pháp riêng của mỗi người trả giá cho Hà Nội linh thiêng và hào hoa.

Câu chuyện một người Thủ đô nơi lưng đèo mây Tây Bắc mà hơn ba mươi năm trước tôi đã gặp. Người trai Thăng Long, học giữa chừng trường Bách Nghệ thì Cách mệnh…

Đêm 04 tuần Ba đèo vắng lưng mức độ núi, chiếc xe quân sự tôi bám theo hỏng máy giữa đới hot đới lạnh tranh chấp. Gió khua triền cỏ tranh ướt hơi đêm loạt soạt. Súng nổ vu vơ. Tiếng bò lạc thống thiết dưới khe núi âm u. Khói đạn, cao su cháy, sắt thép nung hot bốc mùi chết chóc. Tin chiến sự chấp chới ra-di-o.

Túp lều bạt dã chiến của mái ấm H’mông di tản giao tranh từ đỉnh sơn nguyên nào dạt xuống nương ngô liền ven lộ. Thân ngô khô chặt gốc bó từng túm dựng ngả ngọn vào nhau như hình người đang lom khom mò mẫm tìm kiếm thứ gì đó trong sương. Sau gộp đá có ánh lửa le lói lọt qua lỗ thủng mái bạt. Mùi khói lạ, thơm ngầy, gây phớt vị khét bảng lảng lan tới.

Đói, khát, chúng tôi ghé tham gia lều bạt.

Két nước xe cũng cần được tiếp thêm.

Tấm che cửa lều tốc lên. Chúng tôi hoảng sợ lùi lại.

Bị đánh thức giữa đêm khuya bởi lích kích súng đạn, loáng loáng đèn pin, hơn chục người trẻ già sợ hãi chen tụ sát nhau trong góc. Đứa nhỏ bé nhất khóc ré.

Mái nhà H’mông không bạn nào biết tiếng Kinh?!

Lùm lùm trong khoảng đống chăn sợi như giẻ rách trắng tàn tro cạnh bếp lửa, tiếng người ho khúng khắng. Âm điệu H’mông ề à trấn an công chúng. Đứa trẻ nín khóc, thanh nữ bớt dáo dác.

Ngọn lửa bỗng nhiên bùng lên.

Đống giẻ đụng cựa, hất tung, một bộ xương, không là một con người, xám đen đội mũ nồi chồm hỗm trên tấm chăn rách công bố mắng mỏ chúng tôi bằng tiếng Kinh, trách tại sao không biết tôn trọng và lịch sự với dân, đang đêm xồng xộc xông tham gia...

Tôi nhận ra chất giọng Hà Nội của những người trí thức cũ, trầm ấm, toát ra sự nữ tính thong thả. Giọng nói có sắc vị những cuốn sách cũ trong thư viện có ánh nến đêm Noel, có tiếng bọn piano ngân Nhà Hát lớn. Và tuồng như… cả phường hè lửa đạn 1946 trong gió heo may.

Đích là giọng của những người con trai, đội mũ lá, may ô trắng, trong khoảng Hà Nội lên kinh tế mới, buổi chăn bò thường tạt qua nhà tôi chuyện vãn với bố, uống cà phê hạt muồng. Những người gánh nước bước choạng vạng đưa nhì tay đỡ đòn gánh phía trước để khỏi đau vai.

Giọng của nữ phát thanh viên tiếng Anh trên ra-đi-ô Hà Nội đã khiến bao đấu sĩ Hoa Kỳ bất tuân thượng lệnh. Và giọng phụ nữ vang lên trong tình cờ nơi ngõ vắng, làm cho ta chợt nặng trĩu lòng dù không thấy mặt. Chẳng biết giọng nói người Hà Nội có định chuẩn nào không, nhưng có lẽ tôi cảm nhận được mơ hồ những âm hưởng ấy là một.

Chết yên ổn! Sự chết yên ổn nổi gai. Bao quanh núi rừng còn chưa phai thuốc súng, giọng nói kia dù có trách cứ, nhưng với tôi nó lại là một tín hiệu rét mướt bỗng dội trong khoảng phía người H’mông đang nằm nghiêng co ro, phong thái như trong bụng mẹ, như một phép màu.

Trong ánh sáng bếp lửa, cúi xuống trước ông già râu tóc khỏa lấp hình hài của da khô và xương khô, tôi xin lỗi. Đôi mắt to sáng lên như khoan thủng màn đêm. Không giữ được ý nghĩ về ông, tôi đã buột miệng.

- Thưa, cụ chắc hẳn người gốc Hà Nội xiêu bạt...

- Người Hà Nội thì sao, người Hà Nội thì có gì hay ho đâu. Đứa ở đâu thì cũng vẫn có thể bị xiêu dạt...

Bộ-xương-khô-già-mốc nghiêng người co chân bập miệng tham gia ống điếu giấu trong đống giẻ, rít. Cái miệng móm tóp thâm xoe xoe hắt ra một vài vụn khói xanh ma mị. Mùi khói thoảng đầy đủ cứt gà sáp cháy. Vục xuống, cái miệng móm lại tợp lấy miệng ống điếu. Bên cạnh không khí trong lều cũng bị ông già hít cạn... Bàn tay cóc cáy, móng dài khoằm bải hoải buông ống điếu. Thở hắt. Đống giẻ rũ rượi lặng. Lửa chập chờn quay về, giọng ông đột nhiên vụt trong, rõ ràng sau khi nuốt ực ngụm khói còn lất phất loanh quanh miệng, chiêu nước sôi lục sục trực tiếp trong khoảng vòi ấm.

- Anh là người Hà Nội hay sao mà kiếm được vơ vào thế... Đúng, tôi người Thủ đô. Xã Hàm Long, có nhân thức không?

Chống gối đứng dậy ông lum khum đi quành lều. Sự khích động bỗng nhiên khiến cho ông đứng thẳng. Ông hỏi thăm những cây cơm nguội mọc vòng vo khu vui chơi. Hỏi thăm đội kèn giáo xứ và dàn nhạc người Philippines có còn chơi ở Bờ Hồ.

Tôi ngớ ra, mãi mới hiểu trí tưởng ông đang khôi phục lại dòng chảy mấy mươi năm trước. Một cái phất tay ông quay lại phía người nhà. Đôi câu tiếng H’mông chậm rì rì rãi. Những ánh mắt H’mông đen lánh nhìn ra. Bộ ấm trà da lươn Bát Tràng lọc cọc trong túi vải lanh được bày lên chiếc ghế mây tròn chân ngắn. Hương trà tuyết thanh dịu ùa dậy mâu thuẫn với mùi khói thuốc còn quanh quất. Bát mèm mém rã rời như lương khô nhúng nước. Chảo rau cải nguội lõng bõng.

Không khách hàng nào có kỹ năng ăn trước những ánh mắt hau háu khảo sát. Chúng tôi ngồi bệt vây vòng vo ấm trà. Ông già chuyên nước, sang chén động tác nhuần nhuyễn, khéo gọn, tinh xảo như đang bấm nốt trên cần bầy đàn. Những ngón tay mang tâm thế của chủ nhân. Nước trà, chiết ra trong khoảng vòi ấm xoáy tròn xuống lòng chén màu nước xanh ngà như mật ong hoa anh túc pha loãng.

Nhấp môi, người lái xe rụt rè nhận đồng hương Thủ đô. Anh ở phường Đội Cấn. Ông lắc đầu, ngày ông rời đô thành thì Thủ đô chưa có cái tên phường đó. Niềm vui sáng khuôn mặt hốc hác xám, ông độc thoại: Ngày nhỏ tuổi ta thường trèo hái quả cơm nguội dọc thị trấn Hàm Long làm đạn bắn ống phụt. Chơi trò đuổi bắt trên các chuyến tàu điện nói quanh bờ hồ Hoàn Kiếm. Xã cò trắng về ngủ đỗ trên ngọn cây sao. Phố xanh bóng sấu mùa hè ve đái như mưa. Mỗi nửa đêm về sáng tàu hỏa nhoài qua Long Biên về ga Hàng Cỏ nghe như mưa rào sôi réo cơn xa. Ba mươi ba năm ta hướng về Thủ đô trong tiếng khèn ngập ngụa sương mù và nồng bạn nào bột ngộ đồ, khói thuốc…

Đăm đăm ngắm người tài xế, bất thần ông lão níu lấy anh.

- Lẽ nào khuôn mặt của trai Thủ đô bây giờ là đây sao. Cậu, cậu hãy nói, hãy hát câu gì cho ta nghe xem nào.

Người lái xe ngây gương mặt đen nhẻm.

Run rẩy buông anh ta, ông lả người. Tôi và khách hàng nào đó định đưa tay ra. Nhưng ông gạt đi cất giọng đọc cộng minh sâu, rộng.

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Tuổi hồng hương cốm mới.

Lối mòn thơm mãi dấu Em đi.

Gió thổi mùa Thu vào Hà Nội!

Ta nhớ sáng chủ nhật đi trên hè phố Hàng Đào giữa dòng chảy màu sắc Hà Nội. Trong hương thơm Hà Nội, có một mùi hương khác lạ đột nhiên len tới: Trước mắt đàn bà lụa xanh lá, áo kiểu Le Mur cổ khoét hình trái tim bước tham gia nhà hàng Nouveautés, gã trực cửa mặc đồ tây, tóc mượt, nhún nhường mở và giữ cánh cửa kính mời nàng vào. Nàng là con gái rượu ông Docteur người hàng phố với ta.

Ánh sáng đèn qua sườn cửa tạo dựng, đưa hương thơm trong khoảng người nàng và những sóng nếp áo dài lụa xanh lá tới ngây bất tỉnh nhân sự cho ta.

Nàng có bàn tay biểu cảm, ta thường mê ngắm. Nhân thức ta mê tay đẹp, hễ thấy ai có tay đẹp hơn tay chính mình, nàng cũng ao ước: Giá gì em có bàn tay đó cho anh...

Ta theo Việt Minh lên rừng, nàng chuẩn bị đôi dép cao su con hổ, xà phòng Evening in Shanggai, bàn chải răng Hong Kong, kem răng Gibbs. Và những tệp giấy pơ-luya màu hồng ướp hương hoả hồng.

Ông lão bỗng cúi đầu, mái tóc bạc xõa rượi như mớ sợi lanh phơi nắng trùm rất dị mặt. Thở dốc. Bà phi tần len lén đến bên đỡ lưng, ông lão lắc người. Đâu đó trong bóng tối hiện lên cây bầy măng-đô-lin cũ kĩ dài.

Chệch choạng, ông cầm cây đàn. Màu tập thể đã phai, nhưng mọi cụ thể còn vẹn nguyên. Tình ca, tráng ca loạn lạc, giai điệu dân ca Pháp, Ý ríu ran, nhí nhảnh lúc hát cùng bạn hữu, lúc ư ư a a hư vô hòa âm, ông vụt trở thành cao lớn, trong ánh sáng bếp lửa đang tàn.

Có sức mạnh yêu thuật nào đấy trong mỗi đường gân thớ giết teo quắt mới có thể dựng dậy được cơ thể xô lệch hình hài.

Xoay lảo đảo gục xuống đống chăn, lại thở dốc, tưởng lép như chiếc bóng bay bị chọc thủng, thì ông lại lồm cồm bò dậy. Lom khom với cây khèn bè yêu thương ấp ôm ở lòng, bước dancing giật bên phải, giật lắc bên trái, khép vòng vòng quanh bếp lửa. Giai điệu khèn đón khách ọ ẹ ngân lên khoảnh khắc rồi tắt lịm giữa ống thoát thanh.

Người cung phi lại chạy ra, lần này ông để im giữ cho ông đứng vững. Ông nghẹo đầu hát bài ca H’mông. Bài ca người con trai đi cày trên nương đá. Rồi con bò gặm cỏ… Ông cũng không kéo nổi được bài ca đi đến đích. Nó tắt dần nơi vòm họng…

Tóa mồ hôi, trắng sáp, ông ngồi bất động. Bếp lửa tiếp thêm củi là những thân ngô khô lồng phồng. Có lẽ là lần tiếp củi sau cùng trước khi trời sáng. Ống điếu lại sè sè cháy. Nhựa thuốc phiện ngậy, gây quánh đặc gian lều. Lại tu nước sôi trong khoảng vòi. Lại những mẩu độc thoại. Chúng tôi không bạn nào dám đặt thắc mắc. Kho ký ức đã được khói thuốc phiện khơi dậy, ông nhắc lại cho bản thân phổ quát hơn là để trải lòng với khách.

Hơn ba mươi năm trước, cuộc binh lửa chống thực dân Pháp ngoặt bước sang tình thế Việt Minh có thể chủ động. Để chuẩn bị cho chiến dịch biên cương, tổ chức đã chọn những người bộ đội tự nguyện trợ thời trút quân phục xâm nhập miền sơn nguyên làm dân vận. Và anh lính người Hà Nội với cây măng-đô-lin trên ba lô, luồn rừng núi về bạn dạng H’mông cùng tận cột mốc.

Để có được lòng tin với dân bản, anh đã ba cùng tập hút thuốc phiện, học cày bò nương đá, học thổi khèn. Cắt tiết gà trống cúng ma kiếm được họ Hạng thay họ phụ thân. Cho đến ngày kể được tên hơn trăm bài khèn: Khèn gọi nửa kia, khèn dẫn ma mùa lúa mới, khèn khai hội Xuân… thì rèn dao, dao sắc, thì đúc lưỡi cày, cày bén, dây lưng băng vải nói quanh cạp quần không tụt, ăn được mèm mén thìa gỗ, uống rượu ngô bằng bát thì anh cưới hậu phi.

Đám cưới của anh với cô gái H’mông họ Hạng có tiếng bè lũ măng-đô-lin, say vật rượu ngô và những bài khèn. Đêm động phòng, đích thân bố hoàng hậu tiêm thuốc phiện cho rể. Sáng hôm sau khi cô dâu thức giấc thức, sờ không thấy chú rể, hấp hoảng đi tậu. Chạy ra đầu dốc núi cô dâu nhận ra chú rể đang ủ ấp gốc cây sa mu nhìn về xuôi nước mắt lăn dài.

Rồi cũng đến ngày anh có thể giảng giải làu làu cho lớp trẻ H’mông các câu chuyện cũ kĩ tích, thần thoại, phương ngôn, thành ngữ, tục thờ phụng Tổ tiên bốn đời: Thần tài, thần thuốc, thần thổ công...

Lễ hội Gầu Tào mùa Xuân trên nương ngô vừa bẻ bắp đầu bạn dạng, trang phục vải lanh đen, vòng vía lắc cắc, anh diễn giả cả nhị thiên trường ca bất hủ được người H’mông truyền miệng: Trường thán ca và Trường hỷ ca. Chất giọng nam trung của anh khi cất lên các làn điệu dân ca: Tiếng hát khiến dâu, Tiếng hát mồ côi, Tình khúc giao duyên... Không ít cô gái chưa chồng cắn dập cả môi khi nghe chàng rể nhà họ Hạng hát...

Chiến dịch biên thuỳ chiến thắng.

Tây Bắc phóng thích, mấy đứa con đương trứng gà trứng vịt bám mẹ, tâm lực anh cũng cạn không còn đủ theo đoàn quân giải phóng về xuôi. Nhiệm vụ mới của anh là giúp người H’mông bất biến lâu dài cuộc sống mới. Miền sơn nguyên trì níu anh bằng ái tình nguyên sơ của nó.

Nụ cười móm mém, tay phải gãi tay trái, lớp da khô bung ra như cám, ông lão nói.

- Chắc anh sống chưa đủ để thấm một vấn đề đơn giản: Không chỉ vui mừng mới có sức lưu giữ một số phận, mà sự khốn khó khăn còn có sức mạnh như một chiếc khóa, một ngôi nhà không có lối ra...

Nhìn người nam nhi tàn kiệt giữa lốc nhốc hoàng hậu nhân loại H’mông, tôi chẳng thể hình dong hơn ba mươi năm trước ông là một trong những đội viên quyết tử quân rời Hà Nội sau cuối qua ngả cầu Long Biên. Ánh dư quang hào hoa chỉ còn ẩn tàng trong tiếng bọn măng-đô-lin và giọng nói định chuẩn quý phái đất Tràng An.

Ông chỉ là một trong vô khối người Thủ đô đã xa Hà Nội. Còn bao lăm người Thủ đô nằm gục bên đường tàu Nam tiến, nằm dọc Trường Sơn hoặc lẫn tan vào sóng biển Đông. Tha ma từ Bắc tham gia Nam, ở đâu xảy ra những trận chiến lớn thì số lượng bia mộ liệt sĩ Hà Nội con số đếm cũng rợn người...

Thân phận những kỹ sư, thầy giáo, học sinh, bác sĩ, bạn trẻ xung phong cùng lớp lớp tiểu thương sau 1954, sau 1975 đành lòng bỏ lại một Hà Nội an toàn, mang hào hoa thanh lịch đối đầu với dấu vết bom mìn, muỗi vắt, đá núi, rừng hoang...

Rạng ngày, xe vận chuyển gầm gào nổ máy. Chiếc can nước cuối trong lều cũng đủ tràn két nước. Ông lão bắt người nhà đỡ lên đứng bên cửa buồng lái chia tay đồng hương Thủ đô. Quay sang với tôi, ông thầm thì một địa chỉ phố cũ rích, và tên người con gái áo Le Mur lụa xanh.

Nhún vai, ông nói mái ấm cắm lều ở đây cho đến khi nào chiến sự lắng xuống hẳn sẽ trở về bản cũ. Hỏi cái tên bản ấy ở đâu thì ông chỉ vu vơ về phía núi nhơm nhở. Sương mù.

Hốt nhiên tôi bận rộn nợ ông già H’mông, một-người-trai-Hà-Nội ân đức nào đó chẳng thể trả. Đã có đầy đủ tại sao sau mỗi câu hỏi. Nhưng số mệnh của những người con Hà Nội ở xa Hà Nội phương pháp này hay bí quyết khác cũng đã an bài. Liên hệ thị trấn cổ, tên người thanh nữ áo Le Mur lụa xanh cũng nhòa nếp nhớ. Dù hiếm nghĩ tới vướng chút ngậm ngùi...

Rồi thình lình có cuộc chạm mặt nhà văn già Thủ đô với tôi nơi quán nước đầu ngõ phố cổ lỗ. Mái quán ghếch lên đầu tường rào gang. Ba chiếc gỗ chân ngắn. Ba chiếc ghế nhựa cao chân. Quán chuyên trà Thái, kẹo lạc, rượu trắng, thuốc lào, lạc rang. Và cốm Vòng. Cốm mới nức hương Thu…

Chủ quán là bà cụ hiền hậu tóc dài trắng bông vẫn để buông cài kẹp ngang lưng. Mùi nước hoa cổ truyền nào đó khói sương thoáng thấy, thoáng không. Vẻ đẹp tuổi già thong dong nỗi mưu sinh đạm bạc. Nhà văn cho biết bà là con ông bác sĩ, người đẹp xưa chuyên mặc áo Le Mur lụa xanh, trải nhị đời chồng không con. Từng là biên tập viên xuất bản, bà sống một chính mình trong căn phòng áp mái vốn để chứa đồ còn sót lại của ngôi biệt thự cũ ngày xưa...

Vấn đề vừa biết nhói lên trong tôi về một khi không. Cũng phương pháp chuyên nước, rót nước ấy. Đặc biệt bàn tay mở gói cốm, tiếp cốm ra chiếc đĩa sành, nhấc nút lá chuối, nghiêng chai rượu trắng tham gia miệng chén sứ hạt mít cứ đơn giản mà kiêu kỳ cách biệt...

Có mối dây nào không giữa người Hà Nội chủ quán nước với người Hà Nội như xác-ướp, giơ bàn tay khô quắt cào tham gia sương mù tiễn chúng tôi xuống núi. Có thể họ đã từng là trai tài gái sắc của nhau. Và cũng có khi chẳng là gì cả...

Chốc lát trong tôi xóa nhòa hình ảnh ông già co ro trong đống chăn rách, mà là nam kỹ sư trường Bách Nghệ ấp ôm cây đồng chí măng-đô-lin nhún bước ngược chiều kim đồng hồ giữa vòng tròn các cô gái H’mông vung khăn tay khiêu vũ múa trong ngày hội Gàu Tào ở nương ngô vừa thu hái, dưới chân núi đá cao dựng đứng xanh vời.

Nguyễn Tham Thiện Kế


Tham khảo thêm: Máy bơm ly tâm giá rẻ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét